Các bệnh của cây bưởi là gì?
Rầy chổng cánh:- Cách gây hại: Khi mật số cao, sự chích hút của rầy làm cho chồi bị khô, rụng lá, gây hiện tượng khô cành. Rầy còn truyền vi khuẩn Liberobacter asiaticum gây bệnh Vàng lá greening cho cây.
- Phòng trị:
+ Loại bỏ nguồn bệnh ra khỏi vườn.
+ Trồng giống cây sạch bệnh.
+ Điều khiển đọt non ra tập trung, trồng cây chắn gió chung quanh vườn.
+ Không trồng cây kiểng như Cần thăng, Nguyệt quới, Kim quýt trong vườn.
+ Nuôi kiến vàng Oecopphylla smaragdina.
+ Sử dụng bẫy màu vàng vào các đợt ra lộc non, cứ 5 cây/hàng đặt 1 bẫy. Khi phát hiện thành trùng, dùng thuốc hóa học hoặc dầu khoáng nồng độ 0,5% phòng trị.
+ Chỉ sử dụng thuốc trừ sâu khi thật cần thiết, có thể dùng các loại thuốc nhóm Fenobucarb (Bassa), Thiamethoxam (Actara), hoặc Buprofezin (Applaud)
Rầy mềm
- Cách gây hại: Rầy chích hút nhựa làm đọt non không phát triển và biến dạng, phân chúng thải ra có nhiều chất đường mật kích thích nấm bồ hóng phát triển trên lá làm giảm khả năng quang hợp. Rầy mềm còn là môi giới truyền bệnh Tristeza .
- Phòng trị:
+ Tỉa cành để cây ra đọt non tập trung.
+ Trong tự nhiên có những loài ong ký sinh thiên địch tấn công rầy mềm như: bọ rùa, green lacwing, ruồi ăn rệp (Syrphidae) và ong ký sinh thuộc họ Aphididae.
+ Trị các loại thuốc như nhóm Acephate (Lancer 75 WP), nhóm Buprofezin (Butyl 10 WP, Applaud 10WP), nhóm Fenobucarb (Bassa 50ND), dầu khoáng.
Bù lạch
- Cách gây hại: Bù lạch tấn công trên lá non, hoa và cả trên trái.
- Phòng trị: Dùng bẫy màu vàng đặt khi cây ra hoa để phát hiện. Khi thấy có triệu chứng đầu tiên trên trái, tiến hành phun các loại thuốc nhóm Artemisinin (Visit 5 EC), Malathion (Malate 73 EC), nhóm Dimethoate (Fenbis 25 EC).
Sâu vẽ bùa:
- Cách gây hại: Lá non bị tấn công sẽ không phát triển và biến dạng, giảm quang hợp, cây sinh trưởng và phát triển kém, nhất là cây con, hoa trái dễ bị rụng.
- Phòng trị: Trong tự nhiên có nhiều loài ong ký sinh thuộc họ Encyrtidae và Enlophidae ký sinh trên nhộng. Phòng trị sâu vẽ bùa ngay trong giai đoạn ra lá non như vào đầu mùa mưa, tỉa cành cho ra đọt non tập trung, mau thành thục để hạn chế sự phá hại của sâu. Phun thuốc ngay khi lá non vừa có triệu chứng đầu tiên (25% đọt hoặc lá non) bằng các loại thuốc nhóm Abamectin (Tập kỳ, Vibamec) hoặc Imidacloprid (như Confidor).
Bệnh thối gốc, chảy mủ: (nấm Phytopthora nicotianae)
– Triệu chứng: Bệnh gây hại trong điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ thấp, độ pH đất thấp thích hợp cho nấm phát triển và gây hại. Ở phần gốc có những vết nhũn nước, nhựa chảy ra, lúc đầu có màu vàng, sau đó khô cứng lại có màu nâu. Vết bệnh sau cùng khô và nứt, ngay vết bệnh vỏ trong bong ra. Bệnh có thể phát triển nhanh vòng quanh thân hoặc rễ chính làm lá bị vàng, nhất là gân lá, kế đó lá rụng, bệnh nặng lá trên cành rụng gần hết, cành khô chết.
– Phòng trị:
+ Không nên ủ cỏ sát gốc vào mùa mưa, cách gốc 20-30cm.
+ Dùng Bordeaux 1%, Copper Zinc 85 WP, Mancozeb 80 WP, Dithane M 45 WP, Champion 77 WP, Acrobat MZ 90/600WP… pha đặc phết vào vết bệnh 7 ngày/lần, để ngừa phết 2 lần/năm vào đầu và cuối mùa mưa.
+ Khi bệnh gây hại trên cây phun thuốc gốc đồng (như Champion 77 WP, Copper Zinc, Curzate M8 80WP), nhóm Mancozeb (Manzate 80WP), nhóm Metalaxyl (Ridomil 72 WP), nhómFosetyl Aluminium (Aliette 80 WP).
Vết bệnh ở gốc, clấy dao cạo sạch vỏ chỗ bị bệnh, rồi dùng Alpine 80WDG pha 20gram thuốc trong một lít nước hoặc dùng các loại thuốc trên pha đặc rồi quét lên chỗ vừa cạo. Hoặc nếu không cạo thì dùng quét lên thôi cũng được.
Phải cào hết đất xung quanh gốc cho thông thoáng… đừng để úng nước.
Bệnh ghẻ: (nấm Elsinoc fawcetii gây ra)
– Triệu chứng: Vết bệnh có màu nâu nhạt nổi lên mặt dưới lá, trên cành non và trái, bệnh ghẻ không có quầng vàng xung quanh như bệnh loét.
– Gây hại: Nấm thường tấn công trên đọt non, cành non và trái, trên lá nấm tấn công mặt dưới lá làm cho lá bị sần sùi, biến dạng, giảm khả năng quang hợp, giảm đi giá trị thương phẩm của trái. Bệnh phát triển và lây lan mạnh trong mùa mưa và qua nước tưới.
– Biện pháp phòng trị:
+ Vệ sinh vườn, cắt tỉa và tiêu hủy ngay các cành, lá, trái bị bệnh.
+ Phun thuốc: Zin, Dipomat, COC, Oxyclorua đồng, Funguran, Dithan- M
Sâu đục vỏ trái:
- Cách gây hại: Sâu chủ yếu gây hại phần vỏ trái, không ăn phần múi của trái. Sâu tấn công khi trái còn rất nhỏ, vết đục tạo nên những u sần trên trái, nếu bị nặng trái sẽ rụng. Nếu sâu tấn công vào giai đoạn trễ hơn, trái vẫn phát triển nhưng sẽ bị biến dạng, vỏ u sần, trái bị giảm giá trị thương phẩm.
- Phòng trị:
+ Theo dõi, thu gom những trái bị nhiễm (trên cây hoặc trái rụng xuống đất), đem chôn sâu để diệt sâu còn ở vỏ trái.
+ Có thể sử dụng thuốc chọn lọc để phòng trị khi vừa tượng trái non, phun liên tiếp 2 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày.
+ Sử dụng chất dẫn dụ phái tính (sex pheromone).
+ Dùng dầu khoáng cũng có tác dụng phòng ngừa tốt.
{ 0 comments... read them below or add one }
Post a Comment